Như ta đã biết, đại từ là từ thay thế cho danh từ hay cụm danh từ trong câu để tránh sự lặp lại danh từ một cách vụng về. Người ta gọi những từ hay cụm từ được đại từ thay thế là các tiền tề (antecedents), tức là những từ đứng trước (Antecedent bắt nguồn từ 2 từ ghép La-tinh với nghĩa “going before”). Các tài liệu ngữ pháp tiếng Anh đều đặc biệt nhấn mạnh đến sự phù hợp giữa đại từ với tiền từ.
– I loaned David my textbook so that he could copy the homework exercises from it.
Tôi cho David mượn sách giáo khoa để anh ấy chép bài tập ở nhà từ trong sách.
Trong câu trên, danh từ riêng David là tiền từ của đại từ he. Danh từ textbook là tiền từ của đại từ it.
Quy tắc: Đại từ phải phù hợp với tiền từ về ngôi, số và giống. Đại từ số ít đi với tiền từ số ít. Đại từ số nhiều đi với tiền từ số nhiều.
Trong những thí dụ dưới đây, các tiền từ được gạch dưới (underline), các đại từ được in đậm (bold).
1) Đồng thuận về số (agreement in number): Nhìn tổng thể, sự đồng thuận về số (số ít hay số nhiều) giữa đại từ và tiền từ cũng giống như các quy luật đồng thuận giữa chủ ngữ và động từ mà chúng ta đã đề cập trong Bài 2. Cụ thể:
* Trong trường hợp có tiền từ ghép (compound antecedent) kết hợp với nhau bằng liên từ and thì đại từ thay thế phải ở số nhiều.
– Dorothy and Helen were distinguished dancers; they were Americans.
Dorothy và Henlen là những vũ công lừng danh. Họ là người Mỹ.
* Nếu tiền từ ghép là những từ số ít kết hợp với nhau bằng liên từ or hoặc nor thì đại từ ở hình thức số ít.
– James or Michael will tell me how much he weighs.
James hoặc Michael sẽ nói cho tôi biết cậu ta cân nặng bao nhiêu.
* Nếu tiền từ ghép là những số nhiều kết hợp với nhau bằng liên từ or hoặc nor thì đại từ nhân xưng ở hình thức số nhiều.
– Neither the tables nor the chairs could be repaired, so they were thrown out.
Không có cái bàn hoặc ghế nào có thể sửa chữa được nên vứt chúng đi.
Nhưng nếu các tiền từ kết hợp với nhau bằng or hoặc nor lại khác nhau về số hay giống, thì luật tiếp cận được áp dụng: Đại từ hợp với tiền từ nào gần nhất.
2) Đồng thuận về giống (agreement in gender) và ngôi (agreement in person): Sự đồng thuận về giống và ngôi tương đối đơn giản và ít mắc phải sai lầm: các tiền từ giống đực thì ta dùng đại từ he, his, him; tiền từ giống cái thì ta dùng đại từ she, her; tiền từ trung tính ta dùng đại từ it. Ngôi thứ nhất ta dùng các đại từ I, we, me, us, mine, ours; ngôi thứ hai ta dùng các đại từ you, yours; ngôi thứ ba she, he, it, one, they, him, her, them, hers, its, theirs.
– My mother sent me a letter, but it never arrived.
Mẹ tôi gửi cho tôi một bức thư, nhưng thư đã không đến.
Nhưng cũng cần chú ý những sai sót như:
– Neither of her brothers is likeky to do well for themselves. (Sai)
Neither đòi hỏi một đại từ số ít thay thế, trong khi brothers hàm nghĩa là tiền từ giống đực, nên ta phải dùng himself thay cho themselves.
– Neither of her brothers is likely to do well for himself. (Đúng)
Không ai trong hai người em trai của cô ấy có thể làm tốt cho mình cả.
NHỮNG SAI SÓT VỀ TIỀN TỪ CẦN LƯU Ý:
1) Thay đổi ngôi (person) hoặc giống (gender) của đại từ một cách tùy tiện.
– David is studying English, a course you need in order to prepare for graduate school. (Sai)
Đại từ nhân xưng you ở đây chẳng “ăn nhập” gì với tiền từ David hết. Ta phải sửa lại:
– David is studying English, a course he need in order to prepare for graduate school. (Đúng)
David đang học Anh ngữ, một khóa học mà anh ấy cần để chuẩn bị cho bậc cao học.
2) Tiền từ không rõ ràng:
Một đại từ nhân xưng chỉ nên thay thế cho một tiền từ duy nhất và rõ ràng. Nếu một đại từ có thể hàm ý đến 2 tiền từ trở lên thì câu văn cần viết lại. Thỉnh thoảng, người đọc không thể biết được một trong số hai hay nhiều danh từ trong câu, danh từ nào là tiền từ của đại từ, chẳng hạn như câu dưới đây:
– David gave John the news right after he arrived.
David báo thông tin cho John ngay khi anh ấy đến.
Anh nào đến? Cả hai đều là nam, vậy đại từ he thay thế cho tiền từ nào: David hay John? Chỉ có cách là thay thế đại từ bằng chính danh từ mới làm rõ nghĩa của câu. He phải được thay bằng danh từ riêng David hoặc John: David gave John the news right after David (hoặc John) arrived.
Tiền từ không rõ ràng cũng xảy ra trong trường hợp có nhiều từ xen vào giữa đại từ và danh từ như trong câu dưới đây:
– David gave John a lift to the Festival so that he could talk to him.
David cho John đi nhờ xe đến lễ hội để anh ấy có thể nói chuyện với anh ấy.
Đâu là tiền từ của he và him? Cả hai đại từ này đều có thể ám chỉ đến một trong hai người David và John. Vậy để cho câu được rõ ràng, chúng ta cần phải viết lại theo một trong hai cách sau:
– David gave John a lift to the Festival because David wanted to talk to him.
– David gave John a lift to the Festival so that the two of them could talk.
Câu trên ta dùng David thay cho đại từ he, nên đại từ còn lại là him chỉ có thể ám chỉ đến John mà thôi. Câu dưới, đại từ them ám chỉ luôn cả hai người.
3) Khi đại từ đặt quá xa tiền từ:
Vấn đề tiền từ không rõ ràng còn xảy ra khi vị trí của đại từ trong câu nằm quá xa so với danh từ mà nó thay thế.
– Mark Twain was a famous American writer and composed many of his works here, who liked to tell funny stories.
Mark Twain là một nhà văn Mỹ nổi tiếng và từng sáng tác nhiều tác phẩm của ông ở đây, là người thích kể chuyện vui.
Câu văn trở nên khó đọc khi có quá nhiều từ nằm giữa đại từ who và tiền từ Mark Twain. Ta cần viết lại theo kiểu mệnh đề quan hệ không xác định (non-defining relative clause) và đặt đại từ nằm ngay sau danh từ mà nó thay thế.
– Mark Twain, who liked to tell funny stories, was a famous American writer and composed many of his works here.
4) Sử dụng đại từ một cách tùy tiện:
Chẳng hạn như đại từ they trong câu dưới đây không hề có tiền từ.
– William quit his job at the law firm because they constantly criticized him.
Ai đã chỉ trích William? Hãng luật chăng? Thành ra, ta phải viết lại:
– William quit his job at the law firm because his co-workers constantly criticized him.
William đã bỏ việc ở hãng luật vì các đồng sự chỉ trích anh liên miên.
Có những trường hợp người viết sử dụng đại từ một cách rất ngẫu nhiên và giao phó cho người đọc muốn đoán sao thì đoán.
– If they decided this plan last week, I would buy more company stocks.
Nếu họ đã quyết định kế hoạch này trong tuần trước, tôi đã mua thêm cổ phiếu công ty.
Đại từ they khá mơ hồ vì nó chỉ “toàn bộ công ty”, trong khi việc quyết định kế hoạch là thẩm quyền của một bộ phận nhỏ, như trong trường hợp này là hội đồng quản trị hoặc ban giám đốc chẳng hạn. Câu trên cần sửa lại:
– If the board of directors decided this plan last week, I would buy more company stocks.
Nếu hội đồng quản trị quyết định kế hoạch này tuần trước, tôi đã mua thêm cổ phiếu công ty.
5) Tiền từ phải là một từ, cụm từ – tức một khối – chứ không phải là một thành phần. Chẳng hạn như trong câu dưới đây:
– David waited at the train station until it came.
Nhà ga xe lửa chạy đến sao? Ở đây, danh từ train đóng vai tính từ và là một thành phần trong cụm danh từ the train station. The train station là tiền từ chứ không phải train, nên ta phải viết lại:
– David waited at the station for the train until it came.
David chờ tàu lửa ở nhà ga cho đến khi tàu tới.
Như thế, train mới là tiền từ của đại từ it.
6) Thay thế một tiền từ hợp lý:
Thỉnh thoảng, một đại từ xuất hiện xem có vẻ hợp với tiền từ trong câu. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ lại thì sẽ thấy, không có một danh từ nào mà đại từ ám chỉ đến một cách hợp lý. Trong trường hợp đó, ta phải cung cấp tiền từ hoặc phải thay thế đại từ.
– David is interested in astronomy, but he doesn’t want to become one.
David quan tâm đến thiên văn học nhưng anh ta không muốn trở thành …
Rõ ràng, ý của người viết muốn dùng tiền từ của đại từ one là “David doesn’t want to become an astronomer” (David không muốn trở thành một nhà thiên văn). Trong đàm thoại hàng ngày thì người ta cũng hiểu và dễ dàng bỏ qua, nhưng trong văn viết, việc dùng đại từ one như thế là sai. Chúng ta phải thay one bằng danh từ astronomer.
– David is interested in astronomy, but he doesn’t want to become an astronomer.