Dưới đây là những sai sót mà người học tiếng Anh thường mắc phải khi dùng đại từ:
– Dùng sai đại từ phản thân (Reflexive pronouns).
– Chọn đại từ nhân xưng làm chủ ngữ hoặc bổ ngữ.
– Chọn đại từ nhân xưng đứng sau than hoặc as.
– Lẫn lộn cách dùng giữa who và whom.
– Lẫn lộn về giống (gender) trong câu có đại từ bất định.
1) Dùng sai đại từ phản thân:
Đại từ phản thân có đuôi –self hoặc –selves với chức năng là phản ảnh lại chủ ngữ nên ta không dùng đại từ này làm chủ ngữ mà dùng làm bỗ ngữ, chỉ rõ hành động của động từ được thực hiện vào ngay chủ ngữ.
– My wife and myself went to the court. (Sai)
– My wife and I went to the court. (Đúng)
Vợ tôi và tôi đã đi đến tòa án.
Đại từ nhân xưng I thay cho đại từ phản thân myself để làm chủ ngữ của câu.
2) Chọn đại từ nhân xưng làm chủ ngữ hoặc bổ ngữ:
Rất nhiều người đã gặp lúng túng dẫn đến việc sử dụng sai đại từ nhân xưng một khi trong câu có từ 2 đại từ này trở lên: “He and I” hay là “him and me”; she and he” hay là “her and him”? Chúng ta hãy thử phân tích câu dưới đây:
– (She, her) and (I, me) understood the question.
Cô ấy và tôi đã hiểu câu hỏi.
Ta đang phân vân không biết dùng she hay her, I hay me. Giả sử, ta chia câu trên ra làm hai: cô ấy riêng và tôi riêng. Ta có:
– She understood the question. I understood the question.
Hoặc:
– Her understood the question. Me understood the question.
Rõ ràng là hai câu dưới sai. Vậy ta chọn: She and I understood the question. (She and I là chủ ngữ của động từ “understood” nên phải ở danh cách).
Một thí dụ về bổ cách:
– The bus leaves (she, her) and (I, me) at the corner.
Xe buýt bỏ cô ấy và tôi lại góc phố.
Ta cũng tách câu này ra làm hai:
– The bus leaves she at the corner. The bus leaves I at the corner.
Hoặc
– The bus leaves her at the corner. The bus leaves me at the corner.
Hai câu trên sai, nên ta chọn: The bus leaves her and me at the corner. (Her và me là bổ ngữ cho động từ “leaves” nên phải ở bổ cách).
Lưu ý:
* Nếu trong một câu có từ 2 đại từ nhân xưng trở lên thì thông thường, ta để ngôi thứ nhất sau các ngôi khác.
– John and I go to the market.
John và tôi đi chợ.
Không nên viết: I and John go to the market.
– This bathroom is for them and us.
Phòng tắm này dành cho họ và chúng ta.
Không nên viết: This bathroom is for us and them.
* “Between you and I” hay “Between you and me”: Rất nhiều người dùng sai cụm từ này. Đây là một cụm giới từ nên đại từ theo sau giới từ between phải giữ chức năng bổ ngữ cho between, ta phải dùng đại từ ở bổ cách: between you and me mới đúng.
– I will keep that information just between you and me.
Tôi sẽ giữ thông tin đó (chỉ dành riêng) cho anh và tôi thôi.
* Sau các giới từ khác, ta cũng dùng đại từ ở bổ cách.
– Come to the park with her and me.
Hãy đến công viên với cô ấy và tôi.
* Việc sử dụng “It’s me” hay “It is I” từng gây tranh cãi rất lâu. Những người dựa vào ngữ pháp thì khẳng định “đây là lỗi thường gặp nhất mà lý do là đại từ ở danh cách (nominative) đóng vai trò bổ túc từ cho chủ ngữ (theo sau động từ be) bị thay bằng đại từ ở bổ cách (objective case)”. Điều này hay gặp trong văn nói và một số văn bản không chính thức. Thí dụ: – Who is there? It’s me! (Ai đấy? Tôi đây).
Cho đến nay, cả hai cấu trúc “It’s me” và “It is I” vẫn được dùng rộng rãi. “It is I” được dùng trong các hình thức trang trọng trong văn viết. “It’s me” chiếm lĩnh trong đời sống hàng ngày, trong văn nói và trong cách viết thoải mái, không câu nệ. Ở đây, ta cũng cần lưu ý là không chỉ “me” mà còn những đại từ khác như: us, them, him và her (chẳng hạn “that’s him”, “It must be them”, …) cũng được dùng sau động từ “be” nhưng ít xuất hiện hơn là “me”.
3) Chọn đại từ nhân xưng sau than hoặc as:
Việc sử dụng đúng các đại từ trong những hình thức so sánh là rất quan trọng do lẽ việc dùng sai đại từ nhân xưng ở danh cách hoặc bổ cách sẽ làm sai lệch ý nghĩa của câu. Hãy so sánh:
– I think John admires Dorothy more than I.
Tôi nghĩ rằng John ngưỡng mộ Dorothy hơn là tôi (ngưỡng mộ Dorothy).
– I think John admires Dorothy more than me.
Tôi nghĩ rằng John ngưỡng mộ Dorothy hơn là ngưỡng mộ tôi.
Chỉ cần thay đổi đại từ nhân xưng ở danh cách (I) với bổ cách (me) là ngữ nghĩa khác ngay. Do vậy, ta cần chú ý đến các đại từ sau than và as, kể cả các đại từ we và us, he và him, she và her…để quyết định việc dùng đại từ nào sau than và as, chúng ta cần phải biết những từ hàm ý, ám chỉ đến.
– William plays the guitar as well as I.
William chơi đàn guitar hay như tôi.
Với câu này, sau as ta phải dùng đến đại từ nhân xưng ở danh cách I và I làm chủ ngữ cho động từ “do” được hiểu ngầm: “William plays the guitar as well as I do”.
Nhưng nếu đại từ nhân xưng làm bổ ngữ thì ta phải dùng bổ cách.
– Michael likes Helen more than me.
Michael thích Helen hơn tôi.
Câu này mở rộng ra là “Michael likes Helen more than (he likes) me”, tức me làm bổ ngữ cho động từ likes. Nhưng nếu người viết có ý rằng “Michael thích Helen hơn là tôi thích Helen” thì câu này phải sửa lại là: Michael likes Helen more than I (like her).
4) Lẫn lộn cách dùng giữa “who” và “whom”:
Trong văn nói hay trong các văn bản không chính thức, đại từ liên hệ whom rất hiếm khi được sử dụng mà người ta dùng who “bao trùm” tất cả. Tuy nhiên, trong văn viết chính thức, chúng ta phải quyết định khi nào dùng who và khi nào buộc dùng whom.
Trước tiên, chúng ta phải nhớ: who là đại từ dùng ở danh cách (nominative case) – tức làm chủ ngữ – còn whom sử dụng ở bổ cách (objective case) – tức làm bổ ngữ cho động từ hay giới từ.
Để dễ dàng nhận dạng đại từ nào đứng làm chủ ngữ hay bổ ngữ, ta có thể tách rời câu ra như thí dụ dưới đây:
– I met the musician (who/ whom) composed this music.
Tôi đã gặp người nhạc sĩ sáng tác bản nhạc này.
Dùng who hay whom đây? Ta tách câu ra và viết lại:
– The musician composed this music.
Người nhạc sĩ sáng tác bản nhạc này.
Hoặc:
– He (she) composed this music.
Anh (cô) ấy sáng tác bản nhạc này.
Như vậy, rõ ràng đại từ thay thế cho musician làm chủ ngữ cho động từ composed, vậy ta phải dùng who:
– I met the musician who composed this music.
Tương tự như thế này, ta phân tích câu dưới đây:
– Mr. Edwards is the kind of man (who/whom) they admire.
Ông Edwards là mẫu người đàn ông mà họ thán phục.
Đoạn câu viết lại là:
– They admire Mr. Edwards.
Hoặc:
– They admire him.
Như vậy, Mr. Edwards hay him làm bổ ngữ cho động từ admire nên ta phải dùng whom:
– Mr. Edwards is the kind of man whom they admire.
5) Lẫn lộn về giống (gender) trong câu có đại từ bất định:
Đại từ bất định (Indefinite pronouns) thường dùng trong những câu có tính chất khái quát, những nhận xét toàn cảnh…nên vấn đề gây trở ngại là “giống” đối với những từ “giống chung”. Trong quá khứ, người ta dễ dàng đồng thuận việc áp dụng “như là đại từ giống đực số ít” đối với các đại từ bất định (đa số đại từ bất định là số ít).
– Everyone wants to do his best. (1)
Ai cũng muốn làm hết sức mình.
– Everybody has his own view of what happened.
Mỗi người có cách nhìn riêng của mình về sự việc đã xảy ra.
– Did anybody hurt himself?
Có ai bị đau không?
Trong các câu này, tính từ sở hữu his (của nó, của anh ấy, của ông ấy) hay đại từ phản thân himself (chính anh ấy, chính ông ấy) dễ dàng được chấp nhận dù đại từ làm chủ ngữ là “anyone, everybody, anybody”, tức mọi người, mỗi người – bao gồm cả nam lẫn nữ.
Việc sử dụng các từ giống đực như he, him, his, himself…khi không phân biệt được giới tính trong câu trở thành “thông lệ”, thậm chí bị lạm dụng như các trường hợp sau đây:
– Any president who wants to be reelected must maintain his popularity during his first term in office. (2)
Bất cứ vị Tổng thống nào (mà) muốn được tái đắc cử thì phải giữ tiếng tăm của mình trong nhiệm kỳ đầu tiên.
Với câu này, bằng hai từ his, người viết làm như thể chỉ có nam giới mới đủ tư cách làm Tổng thống rồi ra tái cử.
Hay:
– A lawyer must always put his clients’ interest before his own convenience. (3)
Luật sư phải luôn luôn đặt quyền lợi của thân chủ trên lợi ích riêng tư của mình.
Lại với hai từ his, câu này ám chỉ rằng, chỉ có nam giới mới làm luật sư mà thôi.
Theo các tài liệu ngữ pháp mới, những cách dùng như trên bị phê bình là có thành kiến “trọng nam khinh nữ” và ngày càng không thể chấp nhận được, nên các nhà ngôn ngữ học tìm cách thay đổi.
Hiện nay, người ta đã đưa ra 3 phương cách:
* Phương cách “lưỡng tính” – tức bao gồm cả giống đực lẫn giống cái: không những dùng “he, him, his, …” mà dùng luôn “she, her, hers,…”. Những câu (1), (2), (3) nói trên sẽ trở thành:
– Everyone wants to do his or her best. (1)
– Any president who wants to be reelected must maintain his or her popularity during his or her first term in office. (2)
– A lawyer must always put his or her clients’ interest before his or her own convenience. (3)
Nhưng ngoại trừ câu (1) tạm chấp nhận được, chứ câu (2) và (3) do có tới 2 lần “his or her” đâm ra dài dòng và lủng củng.
* Dùng “they, their, them, …” thay cho “his”, nhưng dùng được cho câu (1) vì đại từ everyone tuy ở số ít nhưng ngữ nghĩa là số nhiều (ai, mọi người). Tuy nhiên, chỉ trong văn nói là người ta tạm chấp nhận.
– Everyone wants to do their best (1).
* Cách thứ ba là đặt lại câu, chuyển chủ ngữ qua số nhiều. Câu (1) thay everyone bằng “all people” còn các danh từ số ít đứng làm chủ ngữ ở câu (2) và (3) thì chuyển qua số nhiều.
– All people wants to do his or her best. (1)
– Presidents who want to be reelected must maintain their popularity during their first terms in office. (2) (Nhớ là khi chuyển chủ ngữ qua số nhiều thì phải đổi các từ trong câu cho phù hợp: wants → want; term → terms).
– Lawyer must always put their clients’ interest before their own convenience. (3)
Cách thứ ba được dùng trong văn viết, cách thứ hai thông dụng trong văn nói, như kiểu người ta nói: “Everyone said they would help” (Ai cũng nói rằng họ sẽ trợ giúp).