Phần mở đầu
Mục lục
BÀI TẬP DỊCH
The Welfare State | Nhà nước Phúc lợi |
Every British citizen who is employed (or self-employed) is obliged to pay a weekly contribution to the national insurance and health schemes. An employer also makes a contribution for each of his employees, and the Government too pays a certain amount. This plan was brought into being in 1948. Its aim is to prevent anyone from going without medical services if he needs them, however poor he may be; to ensure that a person who is out of work shall receive a weekly sum of money to subsist on; and to provide a small pension for those who have reached the age of retirement. | Mọi công dân Anh có việc làm (hoặc làm tư) hàng tuần đều phải đóng tiền cho chương trình y tế và bảo hiểm quốc gia. Nhà tuyển dụng cũng đóng góp cho mỗi nhân viên của mình, và chính phủ cũng đóng góp một số tiền nhất định. Chương trình này được đưa ra vào năm 1948. Mục đích của nó là ngăn ngừa tình trạng có người không được hưởng các dịch vụ y tế vào lúc mà họ cần, cho dù họ có nghèo đến mấy đi nữa; để đảm bảo rằng người thất nghiệp hàng tuần đều nhận được một số tiền để sống; và để cấp một khoản lương hưu nhỏ cho những người đã đến tuổi về hưu. |
Everyone can register with a doctor of his choice and if he is ill he can consult the doctor without having to pay for the doctor’s service, although he has to pay a small charge for medicines. The doctor may, if necessary, send a patient to a specialist, or to hospital; in both cases treatment will be given without any fees being payable. Those who wish may become private patients, paying for their treatment, but they must still pay their contributions to the national insurance and health schemes. | Mọi người đều có thể đăng ký với một bác sĩ tùy theo lựa chọn và nếu bị bệnh, họ có thể đến bác sĩ khám mà không phải trả tiền khám bác sĩ, mặc dù họ phải trả một ít tiền để mua thuốc. Nếu cần, bác sĩ có thể gửi bệnh nhân đến một bác sĩ chuyên khoa, hay đến bệnh viện; trong cả hai trường hợp, việc điều trị sẽ được tiến hành mà không phải trả khoản chi phí nào. Những ai muốn cũng đều có thể trở thành bệnh nhân tư, tự thanh toán cho việc điều trị của mình, nhưng họ vẫn phải đóng tiền cho chương trình y tế và bảo hiểm quốc gia. |
During illness the patient can draw a small amount every week, to make up for his wages. Everyone who needs to have his eyes seen to may go to a state-registered oculist and if his sight is weak he can get spectacles from an optician at a much reduced price. For a small payment he may go to a dentist; if he needs false teeth, he can obtain dentures for less than they would cost from a private dentist. | Lúc bị bệnh, bệnh nhân có thể rút một ít tiền mỗi tuần, để bù cho tiền lương của mình. Bất cứ ai cần được khám mắt đều có thể đến một bác sĩ nhãn khoa được phép hành nghề và nếu thị lực yếu thì họ có thể mua kính ở cửa hàng bán kính với giá được giảm đáng kể. Với một chi phí thấp, họ có thể đến nha sĩ khám; nếu cần răng giả, họ có thể được trồng răng giả với giá thấp hơn ở phòng khám răng tư. |
When a man is out of work, he may draw unemployment benefit until he finds work again; this he will probably do by going to a Job Centre (an office run by the State to help people find jobs). If he is married, the allowance he receives will be larger. Obviously the amount paid is comparatively small, for the State does not want people to stop working in order to draw a handsome sum of money for doing nothing! | Khi người ta thất nghiệp, họ có thể rút tiền trợ cấp thất nghiệp cho đến khi tìm lại được công việc; họ sẽ có thể làm việc này bằng cách đến một trung tâm việc làm (một Văn phòng do Nhà nước quản lý giúp mọi người tìm việc). Nếu họ đã có gia đình, họ sẽ nhận tiền trợ cấp nhiều hơn. Hiển nhiên số tiền được trả là tương đối nhỏ, vì Nhà nước không muốn người ta ngưng làm việc để rút một món tiền hậu hĩ mà không phải làm gì cả! |
When a man reaches the age of sixty-five, he may retire from work and then he has the right to draw a State pension. For women, the age of retirement is sixty. | Khi nam giới đến 65 tuổi, họ có thể về hưu và khi đó họ có quyền lĩnh lương hưu Nhà nước. Đối với phụ nữ, tuổi về hưu là 60. |
Mothers-to-be and children receive special benefits such as free milk or certain foodstuffs for which only a minimum charge is made. The state pays to the mother a small weekly sum for each child in a family. There is also an allowance for funeral, for the State boasts that is looks after people “from cradle to grave”! There are special benefits for certain people, such as the blind and the handicapped. | Các bà mẹ tương lai và trẻ em nhận phúc lợi đặt biệt như sữa miễn phí hay chỉ trả chi phí tối thiểu cho một số thực phẩm. Nhà nước trả cho bà mẹ một số tiền nhỏ hàng tuần cho mỗi đứa con trong gia đình. Cũng có tiền trợ cấp cho tang lễ, vì Nhà nước tự hào rằng họ chăm sóc người dân “từ lúc còn nằm nôi cho đến lúc qua đời”! Có những phúc lợi đặc biệt dành cho một số người, như là người mù và người tàn tật. |
The amount of money needed to operate these schemes is enormous and large part of the money comes not from the contributions but from taxation. | Số tiền cần để điều hành những chương trình này là khổng lồ và một phần lớn số tiền này không đến từ tiền đóng góp mà đến từ tiền thuế. |
It is this social insurance scheme, together with the Government’s determination to see that there is full employment (or as near as can be), that constitutes what we can call the “Welfare State”. | Chính chương trình bảo hiểm xã hội này, cùng với quyết tâm của chính phủ để đảm bảo mọi người đều có việc làm (hoặc càng nhiều người càng tốt), tạo thành điều mà chúng ta có thể gọi là “Nhà nước phúc lợi”. |